Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm; một dân tộc yêu chuộng hòa bình, luôn phải căng mình tự vệ. Bởi vậy, hòa bình luôn là mong ước, khát vọng ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Khát vọng hòa bình đã trở thành lẽ sống, là khí phách hùng thiêng của nhân dân ta. Khát vọng bảo vệ hòa bình Từ thuở cha ông dựng nước và giữ nước, khát vọng hòa bình đã hun đúc ý chí, quyết tâm đánh giặc ngoại xâm, cố kết tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Chúng ta coi “binh đao” là việc bất đắc dĩ, nhưng khi đất nước bị xâm lăng, cả nước cùng đồng tâm kháng chiến bảo vệ độc lập chủ quyền, quyết không khuất phục; quyết chiến, quyết thắng. Rõ ràng bảo vệ hòa bình trong điều kiện đất nước đang hòa bình là một tư duy biện chứng sâu sắc hàm chứa cả “sức mạnh cứng” và “sức mạnh mềm”; bảo vệ hòa bình chính là chúng ta đang thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc được thể hiện: (1) Trước hết phải bảo vệ môi trường hòa bình: Xây dựng, củng cố, phát triển các mối quan hệ song phương, đa phương. Thêm bạn bớt thù; đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đi vào chiều sâu thực chất; tạo bước chuyển biến mới về hội nhập với phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với các nước”. Thực hiện nhất quán chủ trương “4 không”. Để bảo đảm môi trường hòa bình, vấn đề then chốt là: Kiên trì, bình tĩnh, sáng suốt, khôn khéo; xử lý đúng đắn các mối quan hệ đối ngoại, trong đó có vấn đề chủ quyền lãnh thổ. Bảo vệ hòa bình bền vững để xây dựng và phát triển đất nước Ảnh minh họa: tuyengiao.vn (2) Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ, nhân dân. Bảo vệ nền độc lập tự chủ của đất nước phải gắn liền với bảo vệ hòa bình và hòa bình được coi là một giá trị thiêng liêng của đất nước. Bảo vệ hòa bình không đồng nghĩa với tư tưởng “Hòa bình chủ nghĩa”. Để có hòa bình thực sự phải luôn luôn sẵn sàng đối phó với mọi nguy cơ chiến tranh. Vì vậy, bảo vệ hòa bình là trách nhiệm chung của toàn dân, của cả hệ thống chính trị và các lực lượng vũ trang bao gồm cả sứ mệnh bảo vệ hòa bình thế giới. (3) Giải quyết các bất đồng bằng biện pháp hòa bình: Trong nền hòa bình bền vững của đất nước, cần gắn kết chặt chẽ “hòa bình ổn định, lợi ích quốc gia-dân tộc với hòa bình an ninh ổn định của khu vực và thế giới. Bảo vệ Tổ quốc đồng nghĩa với bảo vệ hòa bình. Bảo vệ hòa bình là một nội hàm của bảo vệ Tổ quốc và phải bảo vệ “từ sớm-từ xa, từ lúc nước chưa nguy” bằng biện pháp hòa bình. (4) Để bảo vệ hòa bình bền vững: Cần phải luận giải bài toán “chiến thắng mà không cần chiến tranh” ở tầm cao chiến lược, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ. Với mục tiêu bao trùm: Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để tạo thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng-bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích chính đáng phù hợp với luật pháp quốc tế. Làm sâu sắc thêm quan hệ mật thiết với các nước láng giềng; cân bằng quan hệ với các nước lớn và giữ vững quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; góp phần giữ vững ổn định chính trị trong nước và khu vực. Một số giải pháp bảo vệ hòa bình bền vững để xây dựng và phát triển đất nước 1. Bảo đảm ổn định chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Đây là nhân tố quyết định, có vai trò to lớn, tầm quan trọng đặc biệt tạo cho Việt Nam có được một nền hòa bình và thịnh vượng. Sự ổn định chính trị chỉ được xây dựng vững chắc trên nền tảng lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước; tạo sức “đề kháng” mạnh để phòng ngừa, ngăn chặn, tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân, độc đoán, chuyên quyền, cơ hội chính trị, tham ô, tham nhũng; mầm mống hình thành thế lực thù địch bên trong, với chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”… trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ. Giữ vững, tăng cường và thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người chủ trì. Tạo sự đồng thuận, niềm tin của nhân dân. Lựa chọn cán bộ có tâm, tầm, trí, gương mẫu vì sự nghiệp của Đảng và nhân dân. Xây dựng chính quyền vì dân. Đó chính là nòng cốt để bảo vệ hòa bình bền vững. Quân đội nhân dân Việt Nam luôn giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, trở thành một đội quân trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân, lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ hòa bình. Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Quốc phòng Việt Nam là những quan điểm rõ ràng, nhất quán trong việc bảo vệ hòa bình bền vững khi chúng ta đã có chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ để Tổ quốc không bị bất ngờ. 2. Phát triển kinh tế-xã hội là nhiệm vụ trung tâm: Mục tiêu cao cả tối thượng của Đảng là mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; không ai bị bỏ lại phía sau; “dân giàu thì nước mạnh”, đó là vấn đề cơ bản bảo đảm cho công cuộc bảo vệ hòa bình bền vững. Cần tập trung đột phá và phát huy tối đa lợi thế, tiềm năng của các vùng, miền. Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; bảo đảm an sinh xã hội. Xây dựng tiềm lực kinh tế mạnh. Huy động tối đa nội lực kết hợp với kinh tế đối ngoại chính là tạo thế và lực cho sự nghiệp bảo vệ hòa bình bền vững. Nâng cao chất lượng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng bộ, văn minh, hiện đại; hoàn thiện thể chế, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Đẩy mạnh nghiên cứu chuyển đổi ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, phát triển kinh tế số, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Xử lý lợi ích hài hòa, khó khăn cùng chia sẻ để bảo đảm “cùng thắng”. Kinh tế là nhân tố “cần” và “đủ” để bảo vệ hòa bình. Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay đang thực hiện hiệu quả chức năng là “đội quân sản xuất” vừa bảo đảm nâng cao đời sống cho cán bộ, chiến sĩ; vừa tham gia vào tăng trưởng kinh tế, góp phần giảm bớt gánh nặng cho đất nước. 3. Củng cố, tăng cường phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc: Nhân tố quan trọng, là động lực to lớn của sự nghiệp bảo vệ hòa bình bền vững và công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước. Với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng. Tăng cường sự đồng thuận xã hội, huy động sức mạnh tổng hợp để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ hòa bình ngày càng bền vững. “Lấy dân làm gốc”, tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Giữ vững kỷ cương phép nước. Thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Tăng cường khối liên minh vững chắc giữa các giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Củng cố, chăm lo xây dựng mối đoàn kết của các dân tộc, tôn giáo. Hiện nay, công tác này vẫn còn nhiều việc phải làm để không còn kẽ hở dễ bị kẻ địch lợi dụng, chống phá. Cần quy tụ sức mạnh trong và ngoài nước; nâng cao dân trí, trọng dụng nhân tài, xây dựng và gìn giữ bản sắc sân tộc, những giá trị thiêng liêng “bất biến”. Đặc biệt, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự gắn kết chặt chẽ các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương trên các tuyến biên giới, hải đảo, vùng biển trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia là một trong những nhân tố góp phần quan trọng trong bảo vệ hòa bình. 4. Thường xuyên chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc: Đây là nền tảng, yếu tố quyết định tạo nên thế trận vững chắc cho bảo vệ hòa bình. Kết hợp kinh nghiệm tổ tiên ta đánh giặc với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học quân sự thế giới, chúng ta cần vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đó là: Tăng cường phổ cập và giáo dục quốc phòng cho toàn dân kiến thức cơ bản về quốc phòng, an ninh. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp những quan điểm về xây dựng nền quốc phòng vững chắc, thế trận quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân. Xây dựng khu vực phòng thủ trên các địa bàn quân khu, theo các hướng, địa bàn chiến lược. Gắn kết chặt chẽ quốc phòng, an ninh với chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội. Xây dựng tiềm lực quốc phòng mạnh. Tăng cường các hoạt động diễn tập hiệp đồng theo nhiệm vụ, địa bàn, môi trường tác chiến giữa các đơn vị chủ lực, quân, binh chủng và địa phương về phòng thủ dân sự, xử lý tình huống an ninh truyền thống và thách thức an ninh phi truyền thống. Trong đó, Quân đội nhân dân giữ vai trò nòng cốt, xây dựng lực lượng dự bị động viên ngày càng hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp. Nâng cao chất lượng tổng hợp của Quân đội dưới sự lãnh đạo-chỉ đạo của Quân ủy Trung ương-Bộ Quốc phòng. Xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại” thực sự là lực lượng “tinh, gọn, mạnh, cơ động”. Trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc, nhân dân; thực sự là lực lượng trong sạch, tin cậy, có bản lĩnh chính trị, năng lực, trình độ chỉ huy-tham mưu, làm chủ vũ khí, trang bị hiện đại và ý chí chủ động, “không để Tổ quốc bị bất ngờ”. Phát huy nội lực, xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng Việt Nam lưỡng dụng và hiện đại. Từng bước làm chủ và sản xuất trang bị, vũ khí có ý nghĩa chiến lược để bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ. Xã hội hóa một số mặt bảo đảm, trang bị, vũ khí quốc phòng trong nền kinh tế quốc dân; kết hợp mua sắm phù hợp, sẵn sàng đáp ứng cho tình huống quốc phòng khi có yêu cầu. Đủ khả năng để tự vệ chính là tạo sức mạnh chủ động bảo vệ hòa bình ngay trong thời bình. 5. Tăng cường mở rộng hoạt động đối ngoại trong thời kỳ mới: Với 3 trụ cột là “Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân” và giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh tạo thế mạnh tổng hợp cho ngoại giao Việt Nam. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng khái quát: “Chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”(1). Biết người, biết ta, tùy cơ ứng biến “thêm bạn, bớt thù”. Hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng nhằm góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ, củng cố lòng tin, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và Quân đội trên trường quốc tế. Tạo thế đan xen lợi ích, củng cố sự tin cậy chiến lược với các đối tác, ngăn ngừa nguy cơ xung đột. Không “chọn bên”, tranh thủ sự ủng hộ tối đa của quốc tế. Xử lý hài hòa lợi ích, linh hoạt đối tác, đối tượng, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc. Có thể nói rằng: Bảo vệ hòa bình để tạo môi trường thuận lợi phục vụ phát triển kinh tế thì công tác đối ngoại luôn ở tuyến đầu. Thực tiễn cho thấy, khi môi trường quốc tế và khu vực ổn định thì thách thức, nguy cơ với đất nước giảm đi. Bảo vệ hòa bình bền vững để xây dựng và phát triển đất nước vừa là mục tiêu cao cả, vừa là đòi hỏi tất yếu của lịch sử, là khát vọng thiêng liêng, cao quý của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong nỗ lực xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh; mọi người sống trong thanh bình, hạnh phúc, được hưởng thụ giá trị cao quý: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trung tướng, PGS, TS NGUYỄN ĐỨC HẢI, Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng – Bộ Quốc phòng —————— (1) Hội nghị đối ngoại toàn quốc tại Hà Nội ngày 14-12-2021

 Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” (Nghị quyết 35), nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đã đạt được nhiều kết quả tích cực, với những dấu ấn nổi bật. 

Ảnh minh họa

Một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng cho những kết quả tích cực đó là hiệu quả của công tác tuyên truyền về nhiệm vụ chính trị quan trọng này.

ĐƯỢC TIẾN HÀNH BÀI BẢN, HỆ THỐNG, THƯỜNG XUYÊN, BẰNG NHIỀU HÌNH THỨC PHONG PHÚ

Ngay sau khi Nghị quyết 35 được ban hành, Bộ Chính trị đã chỉ đạo tất cả các cơ quan, đơn vị, địa phương đẩy mạnh triển khai việc triển khai Nghị quyết. Ban Chỉ đạo 35 đã được thành lập từ Trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện và ở các bộ, ban, ngành với vai trò trực tiếp chỉ đạo, điều hành việc triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch gắn với chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong đó, công tác tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được tiến hành khá bài bản, hệ thống, thường xuyên, bằng nhiều hình thức phong phú. Nhiều đảng bộ, chi bộ cơ sở không chỉ tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết mà còn tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề về nội dung Nghị quyết để phổ biến, lan tỏa đến đông đảo cán bộ, đảng viên. Nhờ đó, “đa số cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu đã nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa, tầm quan trọng, sự cần thiết của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”(1).

Ban Chỉ đạo 35 Trung ương đã chỉ đạo các đơn vị đa dạng hóa hoạt động tuyên truyền trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng kênh truyền thông, kết hợp giữa truyền thông truyền thống và truyền thông hiện đại, giữa truyền thông chính thống và phi chính thống. Các hoạt động tuyên truyền trên sách, báo, tạp chí tiếp tục được đẩy mạnh. Một số báo, tạp chí đã xây dựng chuyên mục phù hợp, chuyên sâu để đăng tải những bài viết có nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, trong đó tiêu biểu là: Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Lý luận chính trị, Tạp chí Tuyên giáo, Báo Nhân dân, Báo Quân đội nhân dân… Các nhà xuất bản như Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân… cũng đẩy mạnh việc xuất bản, phát hành các ấn phẩm về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tính trong giai đoạn 2019-2022, cả nước có hơn 200 đầu sách tham khảo, chuyên khảo có nội dung liên quan đến Nghị quyết 35, trong đó có nhiều cuốn sách có nội dung đấu tranh trực diện với những quan điểm sai trái, thù địch(2). Các Đài Truyền hình quốc gia và địa phương đã xây dựng các chương trình chính luận về có nội dung liên quan trực tiếp đến bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng như: Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) với chương trình “Đối diện”, Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) với chương trình “Nhìn thẳng, nói thật”… Ngoài ra, Ban Chỉ đạo 35 các cấp cũng đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền trên internet và mạng xã hội. Từ năm 2019 đến nay, nhiều địa phương, bộ, ngành đã sử dụng các kênh truyền thông hiện đại với nhiều hình thức đa dạng như: trang thông tin điện tử, website, fanpage, facebook, youtube, zalo… để đăng tải thông tin tích cực, phản bác những thông tin xấu độc, kịp thời định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhiều kênh truyền thông có lượng người theo dõi, tương tác lớn; có tính lan tỏa rộng trong cộng đồng và đóng vai trò tích cực trong việc tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Ngoài các hoạt động tuyên truyền mang tính đại chúng, theo bề rộng, hoạt động tuyên truyền về nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch còn được tiến hành theo chiều sâu với nhiều cách làm sáng tạo, thiết thực. Điển hình là một số Ban Chỉ đạo 35 các bộ, ngành, địa phương đã tổ chức nhiều hội thảo khoa học, xuất bản và phát hành các cuốn sổ tay hướng dẫn kỹ năng, nghiệp vụ về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng như: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phát hành “Sổ tay công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, Học viện Báo chí và Tuyên truyền phát hành cuốn “Sổ tay hỏi đáp Sinh viên với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay”… Sau khi phát hành, các cuốn sổ tay đã trở thành cẩm nang thiết thực nhằm nâng cao nhận thức, kỹ năng, phương pháp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Đáng chú ý, trên cơ sở thành công của “Cuộc thi viết chính luận khoa học về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức năm 2021, trong năm 2022, 2023 Ban Chỉ đạo 35 Trung ương đã giao Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Tạp chí Cộng sản, Báo Nhân dân, Hội Nhà báo Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức “Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”. Cuộc thi đã thu hút sự tham gia của đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân và một số học giả, chính khách nước ngoài, tạo ra sự ảnh hưởng và lan tỏa rộng rãi trong toàn xã hội. Cuộc thi là hình thức tuyên truyền sáng tạo, thiết thực, hiệu quả về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cũng bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Công tác tuyên truyền, định hướng, nhất là trên internet và mạng xã hội còn thiếu nội dung, hình thức, phương pháp phù hợp, có biểu hiện chạy theo thành tích, bệnh hình thức, hiệu quả chưa cao. Nhận định về điều này, Đại hội XIII chỉ rõ: “Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời”(3). Ngoài ra, công tác quản lý nhà nước về hoạt động tuyên truyền trên báo chí, các phương tiện truyền thông đôi khi còn lỏng lẻo, thiếu kiểm soát, chưa bám sát tôn chỉ mục đích hoạt động và định hướng của Đảng, Nhà nước… Một bộ phận không nhỏ cán bộ làm công tác tuyên truyền do hạn chế về nhận thức, năng lực nên tham gia hoạt động tuyên truyền chưa thật sự hiệu quả hoặc do chạy theo lợi nhuận, lợi ích vật chất nên đã đánh mất đạo đức nghề nghiệp, chỉ chú tâm đến việc đăng các thông tin giật gân nhằm “câu like”, “câu view”, chạy theo tâm lý đám đông mà không tuân theo quy định của các cơ quan quản lý về tuyên truyền bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước… Những hạn chế đó đã ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả công tác tuyên truyền về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta thời gian qua.

ĐỀ CAO VAI TRÒ, TẦM QUAN TRỌNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

Trong Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIII, Đảng ta đã dự báo tình hình thế giới và đất nước trong những năm tiếp theo tác động đến sự phát triển kinh tế – xã hội của nước ta nói chung và công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nói riêng. Bốn nguy cơ, trong đó có tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ còn nhiều diễn biến phức tạp. Đặc biệt, “các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”(4), “Sự chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động ngày càng tinh vi hơn”(5). Đây được nhận định là một trong những nguy cơ đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ ta và tác động trực tiếp đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở nước ta trong thời gian tới.

Xuất phát từ cả những kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập còn tồn tại, trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cần chú trọng đến các giải pháp cơ bản sau:

Một là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và Ban Chỉ đạo 35 các cấp về vai trò, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đây là yếu tố đóng vai trò tiên quyết đến chất lượng, hiệu quả của công tác tuyên tuyền, làm cho công tác tuyên truyền được tiến hành thường xuyên, liên tục, với nội dung và hình thức phù hợp, với các điều kiện bảo đảm đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Theo đó, cấp ủy đảng các cấp, trực tiếp là Ban Chỉ đạo 35 từ Trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện cần tăng cường công tác tuyên truyền về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng bằng những cách thức thiết thực, hiệu quả, sáng tạo, ngày càng đi vào thực chất để tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhiệm vụ chính trị quan trọng này.

Hai là, đổi mới nội dung tuyên truyền về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng gắn với những biến đổi nhanh chóng của tình hình thực tiễn. Xuất phát từ những thay đổi nhanh chóng, khó lường của thực tiễn, nội dung tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay ngoài những vấn đề cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cần tập trung vào những vấn đề cơ bản, trọng tâm trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng; nhận diện đầy đủ những cơ hội, thuận lợi cũng như những khó khăn, thách thức trong những năm tới; chú trọng đấu tranh phản bác các quan điểm lệch lạc, sai trái, thù địch gắn với bảo vệ những quan điểm, chủ trương, chính sách, sự kiện, sự việc cụ thể và định hướng dư luận xã hội theo đúng phương châm “lấy xây làm chính”, “lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”. Việc đổi mới, cập nhật nội dung tuyên truyền theo hướng này sẽ làm cho nền tảng tư tưởng của Đảng ngày càng ăn sâu, bám rễ vào đời sống tinh thần, tư tưởng của nhân dân, trở thành “kim chỉ nam” định hướng cho hoạt động của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Ba là, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng theo hướng thiết thực, hiệu quả. Các hình thức tuyên truyền phải đa dạng, phong phú, gắn với đặc điểm của từng bộ phận quần chúng nhân dân. Ngoài việc tuyên truyền theo những cách thức truyền thống như quán triệt, học tập nghị quyết, viết tin bài trên báo chí, cần đẩy mạnh tuyên truyền trên internet và mạng xã hội. Cách thức tuyên truyền cần có sự đổi mới linh hoạt gắn với nhu cầu, thị hiếu và xu hướng của xã hội. Ngoài ra, cần xây dựng các chiến dịch truyền thông chủ động trong các dịp đất nước có các sự kiện chính trị lớn hay trong những thời điểm khó khăn, nhiều thử thách để các dòng thông tin tích cực trở thành chủ lưu, tránh để các thế lực thù địch có cơ hội chiếm lĩnh trận địa thông tin để tung ra các luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật hòng dẫn dắt, hướng lái dư luận theo ý đồ chống phá. Chú trọng tính chiến đấu, tính thuyết phục, tính hiệu quả của các thông tin tuyên truyền.

Bốn là, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước với các hoạt động tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Cần tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, trong đó chú trọng đến việc “xử lý nghiêm theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với các cơ quan báo chí, phóng viên đăng tải thông tin chưa được xác minh, kiểm chứng, không có sơ sở, căn cứ, gây ảnh hưởng không tốt đẹp đến dư luận xã hội”(6). Do đó, các cơ quan Nhà nước cần xiết chặt cơ chế quản lý hoạt động của các cơ quan báo chí, xuất bản, truyền thông… trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Năm là, phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Tăng cường quản lý và định hướng hoạt động của các cơ quan báo chí; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí, phóng viên, biên tập viên, cáo cáo viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức trong sáng và tinh thông nghiệp vụ để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền”(7). Giải pháp này giúp cho đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền sẽ truyền tải đúng đường lối, chủ trương của Đảng, tinh thần của Nghị quyết; khắc phục tình trạng một bộ phận cán bộ do yếu kém về năng lực, nghiệp vụ, thiếu tinh thần trách nhiệm mà tuyên truyền không đúng, xa rời đạo đức nghề nghiệp, sẵn sàng chạy theo tâm lý đám đông mà bỏ qua tính đảng, tính chính trị trong các hoạt động tuyên truyền nên dễ dàng bị các thế lực thù địch mua chuộc, lôi kéo, đưa các thông tin tuyên truyền đi ngược lại với đường lối, chủ trương của Đảng.

Sáu là, tiếp tục đầu tư, hoàn thiện cơ sở vật chất – kỹ thuật, xây dựng, phát triển và tăng cường phối hợp các lực lượng trong tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Trong bối cảnh phát triển của truyền thông hiện đại, để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nhất thiết phải chú trọng đầu tư ứng dụng công nghệ kỹ thuật số, đẩy mạnh chuyển đổi số để hiện đại hóa các cơ quan, phương tiện truyền thông, tạo hiệu ứng lan tỏa rộng rãi trong toàn xã hội. Ngoài lực lượng cán bộ chuyên trách ở ban tuyên giáo các cấp, cần xây dựng và phát triển đội ngũ chuyên gia, lực lượng xung kích để tạo thành mạng lưới tuyên truyền rộng khắp. Bên cạnh đó các cơ quan tuyên truyền cần có sự phối hợp chặt chẽ để kết nối, lan tỏa những nội dung liên quan đến bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng để tạo thành mạng lưới thông tin tuyên truyền tích cực, góp phần “pha loãng”, đẩy lùi các thông tin tiêu cực./.


Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là yêu cầu tất yếu khách quan bởi nó sẽ góp phần tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức, thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân. Nhìn lại công tác tuyên truyền sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 35 là cách để tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng này trong thời gian tới.

TS. Lê Thị Chiên
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

——————-

(1) (5) (6) (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr. 222, 164, 234, 234,

(2) Lê Mạnh Hùng: Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền nghị quyết của Đảng, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, H, 2023, số 4, tr.46.

(3) (4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr.91, 108.

Nhận xét