Hiện nay, có ý kiến cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là tổ chức của bản thân Đảng, cùng lắm là của giai cấp công nhân, chứ không phải là Đảng của nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam, nên không xứng danh với trách nhiệm lãnh đạo đất nước”. Thực chất, đây là thủ đoạn xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nhằm hạ thấp, xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta, cần vạch trần và đấu tranh bác bỏ. Quá trình ra đời, lãnh đạo cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua cho thấy, vấn đề “đảng của ai” được Đảng ta diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau, gắn với hoàn cảnh cụ thể ở từng thời kỳ. Ngay trong các Văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng (03/02/1930), Đảng ta đã khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp”1, “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản”2. Về sau, quan điểm “đảng của ai” được đề cập đến với phạm vi rộng hơn; đó là: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc Việt Nam. Khẳng định đó xuất phát từ sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta của Đảng. Cuối năm 1945, khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới thành lập đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm; đất nước lâm vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Lợi dụng tình hình đó, bọn phản động cả trong và ngoài nước không từ một thủ đoạn nào hòng xuyên tạc, nói xấu và chống lại Đảng, đả kích sự lãnh đạo của Đảng đối với chế độ mới, tìm mọi cách phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các đảng phái đối lập, như: Việt Cách (Việt Nam Cách mệnh đồng minh), Việt Quốc (Việt Nam Quốc dân đảng),… lộ rõ bộ mặt phản quốc khi dựa vào các thế lực ngoại bang đang rình rập cơ hội, trực chờ xâu xé nước ta để hạ bệ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Tình thế đó đặt ra yêu cầu cần phải củng cố và phát triển mạnh hơn nữa lực lượng cách mạng và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế trong giai đoạn mới. Đặc biệt, thời gian này, dưới sự ủng hộ của quân đội Tưởng Giới Thạch, nhiều đảng phái đối lập ở trong nước hoạt động mạnh, đòi hỏi Đảng cần có giải pháp tập hợp lực lượng rộng rãi hơn nữa. Trước tình thế đó, ngày 11/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Thông cáo “tự ý giải tán”. Việc này, ngoài là một biện pháp giải quyết tình huống, còn “Để tỏ rằng: những đảng viên cộng sản là những chiến sĩ tiền phong của dân tộc, bao giờ cũng hy sinh tận tụy vì sự nghiệp giải phóng của toàn dân, sẵn sàng đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi của giai cấp, hy sinh quyền lợi riêng của đảng phái cho quyền lợi chung của dân tộc. Để phá tan tất cả những điều hiểu lầm ở ngoài nước và ở trong nước có thể trở ngại cho tiền đồ giải phóng của nước nhà”3. Đây là việc làm kịp thời, góp phần bác bỏ luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch rằng: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Chính phủ của Đảng Cộng sản, Đảng đã “tiếm quyền” lãnh đạo đất nước của các lực lượng chính trị khác. Tháng 01/1946, trả lời các nhà báo nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Trong một nước dân chủ thì mọi người đều có tự do tin tưởng, tự do tổ chức. Nhưng vì hoàn cảnh và trách nhiệm, tôi phải đứng ra ngoài mọi đảng phái. Nay tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô”4. Nhất quán quan điểm đó, Đại hội II của Đảng (tháng 02/1951) nhấn mạnh: “Đảng Lao động Việt Nam phải là người lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, trung thành của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của nhân dân Việt Nam, để đoàn kết và lãnh đạo dân tộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, để thực hiện dân chủ mới. Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”5. Điều lệ Đảng hiện hành khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”6. Việc gọi Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp vô sản hoặc của giai cấp công nhân đến việc gọi Đảng là Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam là một quá trình phản ánh tư duy mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta ứng với hoàn cảnh cụ thể của đất nước Việt Nam – một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, một nước nông nghiệp lạc hậu, nơi có số lượng công nhân rất ít so với dân cư, số công nhân đại công nghiệp lại càng ít. Vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng nước ta, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam là bản chất giai cấp công nhân. Vì vậy, cần phải phân biệt rõ bản chất giai cấp và cơ sở xã hội của Đảng, tránh nhầm lẫn bản chất giai cấp của Đảng với vấn đề “đảng của ai”. Việc chỉ rõ bản chất giai cấp và cơ sở xã hội của Đảng như trên là bước phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, hoàn toàn phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Ngoài việc khẳng định bản chất giai cấp công nhân, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng cơ sở “nhân dân lao động” cũng như “toàn dân tộc”. Quá nhấn mạnh, tuyệt đối hóa Đảng “của dân tộc” thì sẽ làm méo mó vấn đề bản chất giai cấp công nhân của Đảng; ngược lại, không thấy yếu tố nhân dân, dân tộc thì cũng không đúng với quan điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ sở xã hội của Đảng. Những cách nhìn tuyệt đối hóa từng mặt riêng biệt đều không đúng với tính biện chứng, trái với quan điểm của Đảng ta. Những người cố tình lợi dụng vấn đề này để đặt điều, xuyên tạc đều đi ngược lại lợi ích dân tộc. Sự kết hợp khéo léo theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà Đảng ta diễn đạt, nhấn mạnh mặt này hay mặt khác chính là để phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng. Thực tế cho thấy, quan điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh về biên độ tập hợp lực lượng cách mạng rất rộng, bao gồm tất cả những người yêu nước, những giai tầng yêu nước; trong đó, cốt lõi, nền tảng vững chắc là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua mỗi thời kỳ cách mạng, dù hình thức, tên gọi có khác nhau, song, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn luôn tuân thủ theo những nguyên tắc, hoạt động cơ bản của đảng kiểu mới của giai cấp công nhân; lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc và nhân dân Việt Nam, với những đặc trưng xuyên suốt là: (1). Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; (2). Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng; (3). Đảng được xây dựng theo các nguyên tắc xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó nguyên tắc cơ bản là tập trung dân chủ; (4). Mục tiêu hoạt động của Đảng là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng xã hội, đưa đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa, giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Vậy mà, một số luận điệu vẫn cố tình xuyên tạc, rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là tổ chức của bản thân Đảng, cùng lắm là của giai cấp công nhân, chứ không phải là Đảng của nhân dân lao động và cả dân tộc. Chúng ta không lạ gì với những thủ đoạn mà các thế lực thù địch, phản động, chống đối, cơ hội chính trị kêu gọi xây dựng “nhà nước phi giai cấp”, “nhà nước toàn dân”,… để thực hiện mưu đồ phủ nhận thành quả lãnh đạo cách mạng của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng ta đối với Nhà nước và xã hội. Họ càng điên cuồng chống phá, thì càng chứng tỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta càng lớn, càng có ý nghĩa quyết định đến thành bại của cách mạng Việt Nam như thế nào. Trong quá trình xây dựng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” hiện nay, Đảng không có lợi ích riêng, mà Đảng là tổ chức đại diện cho lợi ích toàn dân tộc theo đúng tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin: trong tiến trình cách mạng, để giải phóng mình, xây dựng xã hội mới, giai cấp công nhân “trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”7 và “Chúng ta tin tưởng ở đảng, chúng ta nhìn thấy ở đó trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại”8. Điều đó đặt ra nhiệm vụ then chốt là: “phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”9. Thực tiễn tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam trong hơn 90 năm qua chính là minh chứng khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị không những là đội tiên phong của giai cấp công nhân, mà còn là đội tiên phong của nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành cho lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân và toàn dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam được đại đa số nhân dân thừa nhận, trìu mến gọi là “Đảng ta” và là đại biểu trung thành cho lợi ích của mình. Đảng luôn đồng hành cùng dân tộc và mang bản chất giai cấp công nhân, cho dù mang tên như thế nào và cách thể hiện “đảng của ai” ra sao. Với ý nghĩa đó, chúng ta khẳng định một cách chắc chắn rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn xứng đáng với vị trí cầm quyền, vai trò lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, “vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, cùng tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu”10, mà không có một tổ chức chính trị nào khác thay thế được. Những ý kiến nhằm xuyên tạc, phủ nhận điều đó và xuyên tạc, phủ nhận bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta là phi khoa học, phi thực tế, không lừa bịp được ai, sẽ bị vạch trần, bác bỏ. GS, TS. MẠCH QUANG THẮNG

 

(TVVN). Tham nhũng, tiêu cực không chỉ gây phương hại đến uy tín của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị mà còn gây ra những tổn thất nghiêm trọng về kinh tế, phá hoại những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Chính vì vậy, Đảng ta đã xác định phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây chính là tiền đề, là điều kiện để phát triển kinh tế-xã hội được tốt hơn.

Thực tế cho thấy sau 10 năm hoạt động, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng Ban đã có những chỉ đạo quyết liệt, có những bước đột phá trong cuộc chiến với “quốc nạn” với “giặc nội xâm”. Với quan điểm, chủ trương xử lý “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”, trong giai đoạn này đã có hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý bị trừng phạt nghiêm khắc dưới “thanh bảo kiếm” kỷ luật Đảng.

Khi Đảng và Nhà nước càng chống tham nhũng quyết liệt bao nhiêu thì những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ cuộc chiến chống “giặc nội xâm” lại xuất hiện với tần suất ngày càng nhiều bấy nhiêu.

Mỗi khi có vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực lớn được phát hiện, cán bộ lãnh đạo cấp cao bị xử lý kỷ luật thì trên nhiều trang mạng của các tổ chức phản động như Việt Tân, Hội Anh em dân chủ, các hãng truyền thông nước ngoài không có thiện cảm với Việt Nam như: RFA, VOA, RFI, BBC News Tiếng Việt, Tiếng Dân… cùng các đối tượng cơ hội chính trị đã lợi dụng triệt để vào công nghệ truyền thông, internet và các trang mạng xã hội phát tán bài viết, hình ảnh xuyên tạc, bịa đặt cuộc chiến chống “giặc nội xâm” của Đảng Cộng sản Việt Nam thực chất là “thanh trừng nội bộ”, là “cuộc đấu đá phe phái, triệt hạ lẫn nhau”, “Cộng sản Việt Nam đang đánh trận giả chứ không phải thực sự là để chống tham nhũng”… reo rắc sự hoài nghitrong nội bộ, trong dư luận, chia rẽ cán bộ, đảng viên, chính quyền với nhân dân, gây ảnh hưởng tới quá trình hội nhập và phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Từ đó kêu gọi muốn chống tham nhũng thì phải “thay đổi chế độ, phải đa nguyên, đa đảng, phải xây dựng xã hội dân sự…”.

Đây không chỉ là cuộc chơi “con chữ” mà là “cuộc chiến thông tin” trên không gian mạng. Các thủ đoạn chống phá này ngày càng bài bản hơn, thâm hiểm hơn, có sự phối hợp giữa cá nhân, tổ chức ở trong nước với nước ngoài. Không chỉ có người dân bị tác động tới suy nghĩ, nhận thức, mà ngay cả một số cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị kém cũng dễ bị rơi vào dòng xoáy của hiện tượng suy thoái về tư tưởng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đã trở thành vấn đề không nhỏ và rất nguy hiểm.

Hiện nay, trong đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ về cuộc chiến chống “giặc nội xâm” đang lộ rõ một “khoảng trống” rất lớn. Đó là chúng ta đang thiếu một hệ thống tuyên truyền phản kích lại việc phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch. Các cơ quan truyền thông, báo chí rất lúng túng, rơi vào thế bị động không biết phải xử lý thông tin đó thế nào, dẫn tới gần như bỏ ngỏ thông tin, không kịp thời đưa ra tiếng nói phản bác.

Việc tự tạo “khoảng lặng, khoảng trống” về thông tin, tuyên truyền đã tạo điều kiện cho sự phản tuyên truyền của các đối tượng thù địch, bất mãn, cơ hội chính trị tự do tung hoành, lèo lái thông tin, dẫn dắt độc giả đi từ hoang mang đến hồ nghi, dần dà suy giảm niềm tin và không tin vào những nguồn tin chính thống. Mặc dù những điều đó là không chính xác, không đúng bản chất của sự việc, nhưng vẫn được đông đảo người dân tìm đọc.

Tất nhiên, giữa thông tin xuyên tạc và thông tin phản bác bao giờ cũng có độ trễ nhất định về thời gian, nhưng không thể đến hằng tuần được? Vì sau đó, sự quan tâm của công chúng đã chuyển qua vấn đề khác và xã hội đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi các loại thông tin xuyên tạc, bịa đặt, hiệu quả của các thông tin chính thống sẽ mất tác dụng, đồng nghĩa với niềm tin của người dân bị suy giảm.

Như vậy, để những thông tin chính thống, đúng sự thật không được đi sau mạng xã hội để không tạo ra những “khoảng lặng, khoảng trống” trong thông tin, tuyên truyền thì cần phải xây dựng ngay một hệ thống tuyên truyền phản kích có khả năng tác nghiệp trên không gian mạng, dựa trên cơ sở lấy các cơ quan truyền thông, báo chí cùng đội ngũ các nhà xã hội học, chuyên gia lý luận chính trị làm lực lượng nòng cốt.

Đây luôn phải được coi là nhiệm vụ chính trị đặc biệt cần thiết và cần tập trung cải cách để có tư duy lý luận mới theo tinh thần “cọ xát và đối thoại”, “phân tích và tranh luận” thì mới đủ sức cạnh tranh và đè bẹp nhưng thông tin thất thiệt, xuyên tạc, bịa đặt.

Các cơ quan chức năng, đơn vị, địa phương phải loại bỏ các rào cản, tạo môi trường cho thông tin được công khai, minh bạch, kịp thời cho truyền thông, báo chí thông báo công khai các kết quả xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực để giải tỏa những băn khoăn cho người dân, cộng thêm với việc áp dụng chế tài xử lý nghiêm khắc đối với hành vi cản trở, bưng bít thông tin.

Mỗi người dân không nên hùa theo những quan điểm mang tính trào lưu, cần phải tỉnh táo, cần biết “gạn đục khơi trong”, nhận rõ tính hai mặt của dư luận xã hội, cảnh giác với những thông tin xấu độc…

Các cơ quan truyên thông, báo chí, đội ngũ trí thức, các học giả cần đi trước một bước, chủ động tiếp cận, khai thác thông tin và phối hợp các cơ quan chức năng sử dụng công nghệ mạng, truyền thông mạng để kịp thời công bố tin, bài viết đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái có tầm lý luận, mang ý nghĩa thực tiễn, có tính thuyết phục, góp phần củng cố và bảo vệ đời sống tinh thần của xã hội; kịp thời biểu dương những tập thể, cá nhân tích cực, lan tỏa những điều tốt đẹp ra toàn xã hội; phải lưu ý, các bài viết phản bác không phải chỉ để “dành tặng” các thế lực thù địch mà còn để giáo dục, thuyết phục đông đảo quần chúng, bạn đọc nhận rõ bản chất, sự nguy hại của quan điểm sai trái, thù địch, cùng đấu tranh, ủng hộ, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước.

Cũng rất cần xây dựng, thiết lập các diễn đàn để trao đổi, thảo luận trên các phương tiện truyền thông, nhất là lập diễn đàn trên không gian mạng để tạo môi trường thuận lợi, phát huy dân chủ để cán bộ, đảng viên và nhân dân chủ động thể hiện, bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, quan điểm, đề đạt kiến nghị… nhằm huy động trí tuệ, sáng kiến, tâm huyết, trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân vào quá trình bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Đối với cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phải tự rèn luyện, tu dưỡng liêm chính từ suy nghĩ tới hành động để quần chúng nhân dân cùng phấn đấu, học tập làm theo. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên cũng phải là một tuyên truyền viên tích cực cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, chống các luận điệu sai trái, thù địch.

Mỗi người dân không nên hùa theo những quan điểm mang tính trào lưu, cần phải tỉnh táo, cần biết “gạn đục khơi trong”, nhận rõ tính hai mặt của dư luận xã hội, cảnh giác với những thông tin xấu độc, không chia sẻ bừa bãi trên mạng xã hội một cách vô cảm, thiếu trách nhiệm để rồi vô tình vi phạm pháp luật, tiếp tay cho các hoạt động chống phá.

Cù Tất Dũng, Ban Nội chính Trung ương

Bài đăng trên Báo Nhân dân điện tử ngày 01.3.2023

Nhận xét