Thuyết “tam quyền phân lập” và sự bất cập của nó trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam

 



“Tam quyền phân lập” không phải là sự lựa chọn mô hình tổ chức nhà nước của Việt Nam

Điều 2, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” nên “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Do đó, mô hình tổ chức nhà nước pháp quyền ở Việt Nam không phải và không thể “tam quyền phân lập”.

Điều đó không phải do ý chí chủ quan của bất kỳ một chủ thể nào mà do những quy định tất yếu khách quan chi phối, bắt nguồn từ bản chất của chế độ chính trị, chế độ kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tiễn và kinh nghiệm 30 năm đổi mới đã qua cũng như việc học hỏi, tham khảo kinh nghiệm của các nước trong tiến trình hội nhập quốc tế đã cho thấy, tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng trong hoạch định đường lối đổi mới, lựa chọn mô hình tổ chức nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không tam quyền phân lập mà thống nhất quyền lực của nhân dân, bởi nhân dân, vì nhân dân.

Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền là sự đồng thuận, phù hợp của Việt Nam với xu thế chung, phổ biến của tiến bộ lịch sử và sự phát triển xã hội trong thế giới hiện đại và đương đại. Tính phổ biến đó được thể hiện ở Việt Nam thông qua tính đặc thù. Nhận rõ tính phổ biến của thế giới để hiểu đầy đủ hơn tính đặc thù của dân tộc trong đổi mới và phát triển, hội nhập quốc tế và hiện đại hóa đất nước. Đây là một tương tác biện chứng cần phải tính đến trong xác định đường lối, chính sách, lựa chọn mô hình và tìm kiếm các giải pháp phát triển. Chủ động hội nhập và tiếp thu có chọn lọc những giá trị và kinh nghiệm của các nước để Việt Nam không ở bên ngoài tiến trình phát triển chung của thế giới. Mặt khác, với tư duy đổi mới, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, cần phải độc lập giải quyết những vấn đề của chính mình trong phát triển, không sao chép máy móc giáo điều mô hình bên ngoài không phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam. Quan điểm đó được chính thực tiễn (từ thực tiễn biến đổi của thế giới và thời đại đến thực tiễn đất nước và dân tộc) soi sáng, chỉ dẫn. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực hiện thống nhất quyền lực trên cơ sở phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp,... là sự lựa chọn đúng đắn, hợp lý mô hình tổ chức nhà nước ở nước ta.

Đây là câu trả lời lý luận được hình thành từ tổng kết thực tiễn đổi mới chính trị và hệ thống chính trị ở nước ta qua chặng đường 30 năm. Có thể xem đó là một thành quả lý luận đánh dấu bước trưởng thành tư duy lý luận của Đảng về xây dựng chính thể, về lãnh đạo Nhà nước và lãnh đạo xã hội với tư cách Đảng cầm quyền.

Nhà nước pháp quyền ra đời là một bước tiến lớn, đánh dấu trình độ phát triển trong lịch sử nhà nước từ học thuyết lý luận đến các mô hình tổ chức nhà nước trong thực tiễn chính trị. Xã hội khi được tổ chức thành nhà nước, được đặc trưng thành xã hội chính trị với hai lĩnh vực cơ bản và quan trọng nhất: kinh tế và chính trị. Một trong những trình độ phát triển của xã hội hiện đại là được xác định bởi nhà nước pháp quyền. Đây là một chỉ báo về xã hội văn minh chính trị mà loài người đã đạt được trong thời đại cách mạng tư sản với vai trò lịch sử của giai cấp tư sản. Nói tới nhà nước pháp quyền là nói tới vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, trong tổ chức và hoạt động của nhà nước. Quan hệ giữa nhà nước và pháp luật, giữa pháp luật và quyền lực được nhận thức và giải quyết trong quá trình lịch sử hết sức lâu dài và phức tạp, đi xuyên qua các cuộc đấu tranh giai cấp với những xung đột, mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp vì lợi ích và quyền lực, từ kinh tế đến chính trị, nhà nước mang bản chất giai cấp, là công cụ để thực hiện lợi ích và quyền lực, từ kinh tế đến chính trị. Giai cấp thống trị nắm lấy quyền lực nhà nước, thông qua sức mạnh của quyền lực nhà nước để nhân danh đại diện cho ý chí và quyền lực của cả xã hội. Bản chất giai cấp của nhà nước trở thành một thuộc tính phổ biến, vốn có ở mọi nhà nước, mọi thời đại, mọi chế độ chính trị. Ngay trong chủ nghĩa xã hội, dù nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho ý chí và quyền lực của toàn thể nhân dân nhưng vẫn là nhà nước gắn liền với thuộc tính giai cấp. Điểm mới và khác của nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân là ở chỗ, giai cấp công nhân không có lợi ích riêng với nghĩa là tư hữu. Nó chỉ tìm thấy lợi ích của mình khi thực hiện được lợi ích xã hội. Do đó, giai cấp công nhân một khi trở thành giai cấp thống trị trong nhà nước thì sứ mệnh lịch sử của nó là thực hiện quyền lực của nhân dân. Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thống nhất quyền lực vào nhân dân.

V.I. Lê-nin nhấn mạnh: trong chủ nghĩa xã hội, đối kháng sẽ mất đi nhưng mâu thuẫn thì còn lại. Thống nhất quyền lực nhưng vẫn có những khác biệt trong cộng đồng nhân dân. Nhà nước pháp quyền tuy đạt đến trình độ hiện đại về hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, phương thức quản lý, kỹ thuật và công nghệ xây dựng thể chế, nhất là luật pháp, về tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức,... nhưng vẫn là nhà nước mang bản chất giai cấp, thuộc về một giai cấp. Tính giai cấp luôn luôn là thuộc tính nổi bật, điển hình của nhà nước, trở thành một nguyên lý kinh điển trong học thuyết mác-xít về nhà nước. Sự thật ấy về nhà nước tồn tại một cách khách quan, cho dù các nhà tư tưởng của giai cấp thống trị này hay giai cấp thống trị khác từ lập trường, quan điểm, ý thức hệ khác nhau mà thừa nhận hay không thừa nhận.

Nhấn mạnh thuộc tính bản chất giai cấp của nhà nước nhưng không tuyệt đối hóa nó, không xem đó là thuộc tính duy nhất, tĩnh tại, bất biến. Bởi, nhà nước nằm trong xã hội, là sản phẩm có tính lịch sử của lịch sử xã hội, của những biến đổi các mối quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc trong cộng đồng thế giới, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày nay.

Trong sự phát triển của tư duy chính trị - pháp lý hiện đại, vấn đề nhà nước pháp quyền không chỉ nhận thức và giải quyết trên bình diện vai trò của pháp luật, quan hệ giữa nhà nước và pháp luật, giữa pháp luật và quyền lực nhà nước thường gắn trực tiếp với chủ thể là giai cấp thống trị mà còn là dân chủ, quyền con người và quyền công dân, là những bảo đảm pháp lý và thực hiện trong thực tế đời sống các nguyên tắc, các chuẩn mực tự do, công bằng, bình đẳng giữa cá nhân với cộng đồng.

Tư tưởng về nhà nước pháp quyền là một tư tưởng chính trị - pháp lý tiến bộ. Việc tìm kiếm mô hình tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền, thực hiện dân chủ, thực hiện và bảo vệ những quyền cơ bản của con người, của công dân là hướng đích quan trọng bậc nhất nhằm hiện thực hóa tư tưởng về nhà nước pháp quyền.

Theo đó, quan niệm về nhà nước pháp quyền của I. Kant và các nhà tư tưởng tiến bộ thế kỷ XVII - XVIII đưa ra nhằm chống lại nhà nước chuyên chế, cực quyền và sự độc đoán, chuyên quyền, các hành vi lạm quyền, lộng quyền có giá trị và ý nghĩa giải phóng trên các bình diện chính trị, pháp lý và nhân văn. Chiều sâu của tư tưởng nhà nước pháp quyền được nhận biết bởi dân chủ, tự do và mối tương quan giữa dân chủ, tự do với nhân quyền (bao hàm cả dân quyền), xác lập những thể chế và cơ chế để thực hiện quyền đồng thời kiểm soát quyền lực, ngăn chặn và phòng ngừa tình trạng quyền lực bị tha hóa bởi chuyên quyền và lạm quyền, bởi những hành vi phi pháp của những người nắm quyền. Xây dựng nhà nước pháp quyền do đó phải dựa trên những nguyên tắc tôn trọng tính tối cao của pháp luật và pháp chế. “Thượng tôn pháp luật” không chỉ được tuyên bố mà còn phải được thực hiện trong đời sống nhà nước, trong xã hội, trong ý thức, hành vi và lối sống của các công chức và công dân.

Có thể nói tới những định đề quan trọng thể hiện giá trị lý luận và thực tiễn của nhà nước pháp quyền trong học thuyết của Locc (nhà tư tưởng người Anh ở thế kỷ XVII) và Montesquieu (luật gia người Pháp, thế kỷ XVIII) cũng như các nhà tư tưởng về nhà nước pháp quyền. Đó là: (1) Cho phép làm tất cả những gì mà luật không cấm đối với công dân và cấm làm những gì mà luật không cho phép đối với những người nắm quyền (các quan chức, công chức, viên chức trong các cơ quan công quyền). (2) Sự bình đẳng và tự do của mọi người trong đời sống xã hội, trước pháp luật. (3) Quyền lực phải được kiểm soát và kiềm chế để ngăn chặn lạm quyền. Để thực hiện yêu cầu này, Montesquieu chủ trương, phân quyền giữa ba loại quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ba quyền đó cần nằm trong tay ba cơ quan khác nhau, kiềm chế lẫn nhau. Đó chính là “tam quyền phân lập”, nội dung cốt yếu, chủ đạo trong học thuyết của Ông mà chúng ta có thể nhận rõ “hạt nhân hợp lý” trong tư tưởng của Ông về dân chủ - pháp quyền, còn tam quyền phân lập không phải là cái duy nhất của mô hình tổ chức nhà nước, càng không phải là sự lựa chọn để xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam như đã nói.

Học thuyết “tam quyền phân lập” của Montesquieu, ở một mức độ nào đó, có thể nói mang ý nghĩa khai sáng về tư tưởng lý luận, còn trong thực tế, tính khả thi của nó là không nhiều, ngay cả trong nhà nước tư sản, trong chủ nghĩa tư bản. Vấn đề đặt ra là bảo đảm sự ngự trị của luật, pháp luật, trước hết là hiến pháp - luật gốc, luật cơ bản của nhà nước trong nhà nước và xã hội. Bản thân nhà nước, chủ thể sản xuất ra luật pháp cũng phải được kiểm soát, cũng là đối tượng kiểm soát của xã hội, của người dân. C. Mác đã nhấn mạnh: sự tự do được thừa nhận về mặt pháp lý chỉ tồn tại trong nhà nước và dưới hình thức luật.

Trở lại vấn đề “tam quyền phân lập” và lý thuyết phân quyền, dùng quyền lực kiểm soát quyền lực, dùng quyền lực đối trọng, kiềm chế quyền lực trong mô hình nhà nước pháp quyền của Montesquieu, có thể nói, khi còn là một giai cấp đang lên, giai cấp tư sản tiến hành cách mạng tư sản, tấn công vào quyền lực của giai cấp phong kiến chuyên chế độc tài, “phá hủy không thương tiếc trật tự cổ truyền” để mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, như C. Mác nói: nó rất cần tới lý luận về xây dựng thể chế pháp quyền. Lý luận đó đáp ứng được yêu cầu giải phóng, thực hiện lý tưởng tự do mà giai cấp tư sản cần để giải phóng sức sản xuất tư bản chủ nghĩa, khẳng định địa vị thống trị của nó. Đó còn là hậu thuẫn về tư tưởng lý luận cho giai cấp tư sản tập hợp lực lượng trong xã hội chống phong kiến chuyên chế và chế độ quân chủ, xác lập nền cộng hòa tư sản. Song, khi đã nắm được quyền lực, giai cấp tư sản tất yếu phải nắm lấy toàn bộ quyền lực nhà nước. Phân quyền và phân lập các quyền trên thực tế chỉ dừng lại như một tuyên bố pháp lý, bị hình thức hóa bởi chính tham vọng quyền lực của giai cấp tư sản đang nắm quyền thống trị. Phân chia quyền lực, kiểm soát quyền lực, dùng quyền lực để đối trọng và kiềm chế quyền lực không dễ gì thực hiện được; hơn nữa, do những mâu thuẫn về lợi ích và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế mà giai cấp tư sản càng phải tập trung sức mạnh để củng cố quyền lực. Đấu tranh quyền lực với những xung đột giữa các nhóm lợi ích trong giai cấp tư sản là minh chứng thực tế về bản chất giai cấp tư sản trong nhà nước pháp quyền tư sản.

Những tư tưởng về pháp quyền và nhà nước pháp quyền, về tự do, dân chủ, công bằng và bình đẳng thường bị khúc xạ dưới lăng kính lợi ích và quyền lực tư sản, chỉ nhằm phục vụ cho chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản thống trị. Dân chủ và quyền con người, quyền công dân vốn là những giá trị xã hội cao quý, phục vụ sự phát triển của cá nhân và cộng đồng, là những thước đo của tiến bộ lịch sử cũng không thể thực hiện đầy đủ và thực chất trong môi trường xã hội tư sản - nơi mà những bất công và phân cực còn ngự trị. Đó là chưa nói tới, ở các nước tư bản và đế quốc chủ nghĩa, những giá trị và lý tưởng cao quý này thường bị các thế lực tư sản thống trị lợi dụng như một chiêu bài để can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm chủ quyền của các nước khác.

Nói tóm lại, “tam quyền phân lập” là một tìm tòi lý luận, đem lại những gợi mở có ý nghĩa để xây dựng thể chế pháp quyền, nhà nước pháp quyền, thực hiện dân chủ và quyền con người trong xã hội hiện đại. Song, những mâu thuẫn và hạn chế của nó nằm ngay trong bản chất của nhà nước pháp quyền tư sản, ngay cả trong thuyết đa nguyên chính trị và đa đảng, trong đấu tranh quyền lực của các đảng phái chính trị tư sản nhằm giành ưu thế thao túng quyền lực nhà nước. Vì vậy, tam quyền phân lập không phải là mô hình tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, là một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời là một trong những phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và là điều kiện bảo đảm cho Việt Nam hội nhập quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa. Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”1. “Trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn”2.

Điều này nhất quán với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước đã được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 “Quyền lực nhà nước là thống nhất” bởi “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Do đó, vấn đề sâu xa, cốt yếu của nhà nước pháp quyền ở nước ta là đảm bảo dân chủ, phát huy quyền làm chủ của người dân, phát triển năng lực làm chủ và thực hành dân chủ của nhân dân trên tư cách người chủ của nhà nước và xã hội. Không phân chia quyền lực nhưng phải đặc biệt phân định, phân biệt rõ các quyền, trên cơ sở phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đổi mới đồng bộ từ Quốc hội (lập pháp) đến Chính phủ (hành pháp) và Tòa án, Viện Kiểm sát (tư pháp) “và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả”3, đó là tinh gọn tổ chức bộ máy đi liền với chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Đây là chìa khóa để giải quyết vấn đề chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Một vấn đề quan trọng khác là phải “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật”4. Có cơ chế bảo hiến tốt mới có thể đẩy mạnh xử lý các hành vi vi hiến một cách công khai, minh bạch, bình đẳng. Không có vùng cấm, nhà nước ở trong xã hội và của người dân chứ không đứng trên, không ở bên ngoài xã hội; kiểm soát quyền lực ở các cấp chính quyền. Đẩy mạnh cải cách hành chính đồng bộ với cải cách tư pháp, làm rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan, tổ chức trong cơ cấu nhà nước cũng như trong hệ thống chính trị. Tăng cường các chế tài để xiết chặt kỷ luật, kỷ cương, pháp chế và trách nhiệm đối với người dân. “Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức”5. Đảm bảo tính chuyên nghiệp, chuyên môn hóa cao của đội ngũ công chức, đề cao đạo đức công chức và kỷ luật công vụ để phục vụ dân có hiệu quả, tăng trưởng niềm tin và mức độ hài lòng của người dân đối với Nhà nước và công chức.

Để tạo ra những chuyển biến đó, đòi hỏi sự nỗ lực và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức, đoàn thể trên tinh thần dân chủ, đoàn kết, đồng thuận vì thắng lợi của đổi mới và phát triển mà sâu xa là phát triển con người - người dân, những người chủ của xã hội dân chủ, của nhà nước pháp quyền

Nhận xét