Công tác xây dựng luận cứ khoa học đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 

Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng luận cứ đấu tranh phản bác quan điểm sai trái thù địch, trước hết, cần coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, củng cố vững chắc tính cách mạng, khoa học của nền tảng tư tưởng, đặc biệt là lý luận về đường lối đổi mới, lý luận về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Bởi vậy, Đảng ta rất coi trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo vấn đề này.

Các đại biểu trao đổi bên lề Hội thảo khoa học cấp quốc gia: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”.

MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

Một là, bám sát những định hướng lớn của Đảng về tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận trong xây dựng luận cứ khoa học.

Thứ nhất, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò của lý luận và công tác nghiên cứu lý luận; ban hành nhiều văn bản có tính pháp lý cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai công tác lý luận. Từ Đại hội VI đến nay, mỗi nhiệm kỳ Đại hội đều ban hành nghị quyết chuyên đề về công tác lý luận hoặc đưa ra giải pháp đẩy mạnh nghiên cứu lý luận.

Sau các kỳ Đại hội, Đảng đều tiến hành tổng kết công tác lý luận, đề ra phương hướng cho nhiệm kỳ tiếp; trong đó có tổng kết 10 năm, 15 năm, 20 năm, 30 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh (1991) xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, 20 năm thực hiện Hiến pháp 1992… Đặc biệt, khóa IX, X, XI, XII có các nghị quyết về: “Nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”; “Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”; “Công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030”; “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”.

Nhiệm kỳ Đại hội XIII, ngoài nội dung Văn kiện Đảng với nhiều vấn đề lý luận sâu sắc, còn có tổng kết 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011).

Thứ hai, ở Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo nhiều vấn đề lớn trong công tác lý luận; nghe các cơ quan nghiên cứu, các nhà lý luận trình bày kết quả, đóng góp ý kiến về những vấn đề mà Đảng, Nhà nước quan tâm; cho ý kiến về kết quả nghiên cứu, về những vấn đề cần thiết khác, tạo điều kiện cho công tác lý luận phát triển thuận lợi.

Định kỳ 5 năm, theo nhiệm kỳ của Đại hội Đảng, các cơ quan tham mưu của Đảng về công tác lý luận phối hợp với các cơ quan quản lý khoa học của Nhà nước xây dựng các chương trình nghiên cứu lớn trong nhiệm kỳ trình Ban Bí thư phê duyệt. Trên cơ sở các định hướng của Ban Bí thư, Chính phủ phê duyệt các chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm quốc gia, trong đó, có các chương trình nghiên cứu lý luận. Các cơ quan tham mưu, tư vấn ở Trung ương tiếp tục tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư về những vấn đề lý luận lớn, cấp bách.

Thứ ba, các cơ quan nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn ở Trung ương luôn coi trọng hợp tác với một số cấp uỷ đảng, địa phương về công tác lý luận, thường xuyên tổng kết thực tiễn, đúc kết lý luận, tăng cường giáo dục để nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới; tăng cường phối hợp với Hội đồng Lý luận Trung ương, chắt lọc kết quả nghiên cứu, là nguồn đầu vào cho hàng loạt các công trình nghiên cứu khác.

Thứ tư, Hội đồng Lý luận Trung ương tiếp tục duy trì kênh hợp tác nghiên cứu với nước ngoài về những đề lý luận trong, ngoài nước quan tâm; hợp tác với nhiều đối tác có kinh nghiệm, góp phần bổ sung, hoàn thiện một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Hoạt động trao đổi, tham vấn trong lĩnh vực lý luận có bước bộ tiến thông qua nhiều cuộc trao đổi lý luận với một số đảng cầm quyền, đảng tham chính, như Đảng Nhân dân Cách mạng Lào; Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Nhật Bản và một số đảng cánh tả Châu Âu; phong trào công sản và công nhân quốc tế…

Thứ năm, một số cơ quan nghiên cứu, đào tạo đã coi trọng một số ngành khoa học quan trọng như: Quản trị quốc gia hiện đại, Nhà nước pháp quyền, Kinh tế học phát triển, Chính trị học, Văn hóa và phát triển… Đặc biệt, ngành khoa học nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng trong thực tiễn có bước phát triển nhanh, đi vào chiều sâu. Việc tập trung nghiên cứu, truyền bá giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh bước đầu đạt kết quả tốt. Công tác đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch được tăng cường, tính thuyết phục được nâng cao trên cơ sở khoa học, luận cứ lý luận, tạo được những tác động tích cực trong đời sống xã hội.

Hai là, một số kết quả trong xây dựng luận cứ đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Các cơ quan nghiên cứu lý luận ở Trung ương vừa tập trung nghiên cứu, bổ sung, phát triển những vấn đề lớn trong nền tảng tư tưởng của Đảng, vừa quan tâm phối hợp với các cơ quan xây dựng luận cứ khoa học, đấu tranh trực diện với các luận điệu sai trái, thù địch. Từ đặc điểm của Việt Nam xuất hiện nhiều vấn đề lý luận cần xử lý, tiếp thu, định hình để phát triển, loại bỏ sự giáo điều, chủ quan duy ý chí, đồng thời tiếp nhận những giá trị mới, tinh hoa của nhân loại, đưa đất nước đi lên phù hợp với quy luật, xu thế phát triển của xã hội loài người; cung cấp luận cứ khoa học để Đảng ta xây dựng, đưa ra những quyết sách với nhiều cấp độ khác nhau, như mô hình phát triển đất nước, chủ trương, chính sách lớn trong từng giai đoạn, vấn đề ở từng lĩnh vực.

Ba là, xây dựng luận cứ, tổ chức các hoạt động cụ thể bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong năm 2022.

Các cơ quan nghiên cứu, tham mưu ở Trung ương đã quán triệt quan điểm sâu sắc giữa “xây” và “ chống” trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch.

Một số cơ quan đã phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức cuộc thi viết chính luận cấp quốc gia về “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức giới thiệu cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”; phối hợp với Bộ Quốc phòng tổ chức Hội thảo khoa học “Vai trò của Quân đội trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới”; phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và các cơ quan tổ chức Hội thảo quốc gia “Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới”…

Nhiều cơ quan ở Trung ương tiếp tục phát hành tài liệu về đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái thù địch; xây dựng Niên giám khoa học; viết bài cho báo chí, cung cấp luận cứ liên quan đến những vấn đề mới, luận điệu mới của các thế lực thù địch trong từng vấn đề cụ thể…

NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM VÀ GIẢI PHÁP CHO THỜI GIAN TỚI

Thứ nhất, trong công tác tổng kết thực tiễn, công tác nghiên cứu lý luận.

Nhận thức về lý luận, tư duy lý luận còn bất cập, nhiều vướng mắc trong nghiên cứu, sáng tạo chậm được khắc phục, nhất là cơ chế tài chính. Nghiên cứu lý luận chưa theo kịp với sự phát triển của thực tiễn, còn “nợ” thực tiễn nhiều vấn đề chưa giải quyết, tính dự báo còn bất cập. Không ít vấn đề lý luận chậm sơ kết, tổng kết; kết quả nghiên cứu chậm được ứng dụng vào thực tiễn.

Công tác phối hợp giữa các cơ quan có nhiệm vụ tổ chức thực hiện với các cơ quan nghiên cứu có lúc chưa thường xuyên, trách nhiệm chắt lọc kết quả nghiên cứu của các cơ quan nghiên cứu lý luận tuy đã có bước phát triển nhất định, song còn phân tán hoặc trùng lắp; việc quy hoạch hệ thống các cơ quan nghiên cứu về dài hạn còn nhiều bất cập. Việc phát huy vai trò của các cơ quan lý luận trong nâng cao chất lượng dạy và học các môn lý luận chính trị trong hệ thống trường đào tạo của Đảng, đoàn thể, hệ thống giáo dục quốc dân còn chậm đổi mới.

Mặc dù việc xây dựng môi trường dân chủ, sáng tạo trong nghiên cứu lý luận đã được quan tâm nhất định, song chưa được thể chế kịp thời, đồng bộ; nhiều vấn đề được cho là “nhạy cảm”, “mật” chưa kịp thời làm rõ, định hướng cụ thể, dẫn tới hạn chế sự tham gia nghiên cứu của giới khoa học, dễ bị các thế lực thù địch, cơ hội lợi dụng, chống phá. Việc đối thoại, đấu tranh với những cán bộ thoái hóa biến chất, phần tử cơ hội chưa thường xuyên, chưa phát huy hết vai trò của các cơ quan chức năng trong đối thoại.

Thứ hai, trong xử lý, tiếp thu kết quả nghiên cứu lý luận, xây dựng luận cứ khoa học.

Công tác xử lý, tiếp thu lý luận chưa đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn vận động nhanh chóng, phong phú và phức tạp; không ít vấn đề đã rõ nhưng chậm được cập nhật, tiếp thu đầy đủ, một số vấn đề mới chưa được tổng kết, làm rõ. Nhiều vấn đề lớn, bức xúc đặt ra từ thực tiễn trong nước và quốc tế chưa tìm ra hướng giải quyết hoặc giải đáp chưa có sức thuyết phục. Một số vấn đề lý luận đã thảo luận, làm rõ, nhưng chậm được kết luận, khẳng định để đưa vào thực hiện. Kết quả các công trình nghiên cứu khoa học lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn có chất lượng chưa cao, còn trùng lắp, không ít công trình tính ứng dụng thấp…


Công tác nghiệm thu, thẩm định, đánh giá chất lượng không ít chương trình, đề tài, luận cứ khoa học chưa thực sự khách quan, thiếu tính khoa học. Các kết quả nghiên cứu sau nghiệm thu được xã hội hóa còn hạn chế; tính công khai, minh bạch trong đánh giá về giá trị ứng dụng, tác động, ảnh hưởng đến đời sống xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu chung về kết quả nghiên cứu lý luận phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý và công tác nghiên cứu, ứng dụng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch.

Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch tuy đã đạt được một số kết quả nhất định, đặc biệt từ khi có Nghị quyết 35 của Bộ Chính trị khóa XII. Mặc dù vậy, tính chủ động, tính dự báo cần tiếp tục được nâng cao hơn nữa; nội dung, phương thức đấu tranh, đặc biệt là trên mạng xã hội cần đổi mới mạnh mẽ hơn. Cần nhận diện kịp thời, cụ thể hơn các loại tội phạm, các loại hình an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống, âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá mới, đặc biệt là các hình thức công nghệ cao. Đội ngũ cán bộ lý luận, cán bộ tác chiến trên lĩnh vực này tuy có bước phát triển mới, nhưng cần nâng cao tính chuyên nghiệp, sự phối hợp giữa các cơ quan, theo phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa…

Thứ ba, một số giải pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận, xây dựng luận cứ khoa học đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thời gian tới.

Một là, bám sát những định hướng lớn của Đảng đối với công tác lý luận. Chủ động, sáng tạo trong nghiên cứu nâng cao nhận thức, trách nhiệm của nhà khoa học, cán bộ đảng viên trong các cơ quan tham mưu, tư vấn ở Trung ương về công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, xây dựng luận cứ khoa học, nhất là những vấn đề lý luận còn “nợ” nhiều nhiệm kỳ; hình thành các “think tank” trên một số lĩnh vực; thực sự phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, nhà khoa học đầu ngành.

Hai làtiếp tục kiện toàn các cơ quan nghiên cứu lý luận. Hoàn thiện các quy định về hoạt động nghiên cứu, xử lý, tiếp thu kết quả nghiên cứu nhằm đưa công tác này đi vào nền nếp, phát huy đầy đủ tự do sáng tạo trong quá trình tìm tòi, khám phá chân lý.

Kiện toàn các cơ quan nghiên cứu, cơ sở đào tạo, phân định rõ chức năng và nhiệm vụ, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ. Phát huy vai trò của Hội đồng Lý luận Trung ương trong tư vấn, nghiên cứu và là đầu mối trong tập hợp lực lượng. Củng cố, tăng cường và phát triển nhanh một số ngành khoa học quan trọng. Xây dựng cơ sở dữ liệu liên thông kết quả nghiên cứu giữa các cơ quan khoa học…

Ba là, mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế. Nâng cao chất lượng, hiệu quả trao đổi lý luận giữa Đảng ta với các đảng cộng sản, đảng cầm quyền về những vấn đề lý luận, thực tiễn Việt Nam quan tâm. Coi trọng công tác thông tin khoa học về những thành tựu của các nước trên thế giới, đặc biệt các nước có những điểm tương đồng về ý thức hệ; những quốc gia có mô hình hay, kinh nghiệm giải quyết các vấn đề lý luận, thực tiễn mà Việt Nam quan tâm trong quá trình hội nhập và phát triển.

Bốn là, đổi mới nội dung và phương pháp, tăng tính chủ động, linh hoạt trong xây dựng, cung cấp luận cứ khoa học. Xác định rõ những mục tiêu trực tiếp, cụ thể trong từng giai đoạn cần nghiên cứu, tổng kết, cung cấp luận cứ khoa học. Khẳng định và bảo vệ một cách khoa học vững chắc, có sức thuyết phục những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng. Quán triệt tinh thần đối thoại khoa học, dân chủ, bình đẳng, tôn trọng sự thật và chân lý khách quan, không áp đặt, quy chụp. Phê phán, vạch trần những âm mưu, thủ đoạn, làm rõ bản chất phản khoa học của những luận điệu sai trái, chống đối, thù địch và phản động.

Đa dạng hóa các hình thức và phương thức đấu tranh, đặc biệt là trên không gian mạng, giữ vững quan điểm và nguyên tắc, mềm dẻo linh hoạt trong phương pháp, gây dựng dư luận xã hội lành mạnh để đồng thuận, nhất trí trong “xây” và “chống”…

Năm là, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ lý luận. Quan tâm đúng mức để xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, nhất là các chuyên gia đầu ngành có trình độ cao, góp phần giải quyết những vấn đề do thực tiễn đất nước và thời đại đặt ra; đổi mới, nâng cao trình độ, phương pháp nghiên cứu, nhất là khả năng dự báo; hiện đại hóa các phương pháp tiếp cận, hệ thống thông tin, dữ liệu lớn và bảo đảm cung cấp thông tin cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, xây dựng luận cứ khoa học…/.

Những luận cứ đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đã góp phần: 1) Nâng cao nhận thức, phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về nền tảng, tư tưởng lý luận của Đảng, tạo tiền đề để xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị tư tưởng, tổ chức, cán bộ, đạo đức lối sống. 2) Đảm bảo xây dựng chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước đi lên, củng cố niềm tin của nhân dân vào đường lối đúng đắn của Đảng. 3) Bổ sung các giá trị tinh hoa của nhân loại, làm sâu sắc hơn kho tàng lý luận của Đảng. 4) Xử lý các vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển của đất nước cả về lý luận và thực tiễn, khuyến khích phát huy dân chủ, sáng tạo, phản biện chính sách nhằm làm rõ hơn cơ sở khoa học, thực tiễn, tạo sự đồng thuận cao trong Đảng và xã hội. 5) Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu mới của đất nước. 6) Phê phán các quan điểm sai trái, thù địch; củng cố và nâng cao vị thế, uy tín của Đảng ở trong và ngoài nước, nâng cao hình ảnh và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Nhận xét