Tăng cường phối hợp giữa CAND và QĐND trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc

 

Tăng cường phối hợp, hiệp đồng, đoàn kết, gắn bó giữa Công an nhân dân và Quân đội nhân dân vừa là truyền thống quý báu, yêu cầu khách quan, vừa là vấn đề có tính nguyên tắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Đây cũng là mặt công tác được hai lực lượng coi trọng, triển khai thực hiện toàn diện và đạt nhiều kết quả quan trọng. Trước yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, hai lực lượng cần tiếp tục đẩy mạnh công tác phối hợp, với những giải pháp đồng bộ, tạo sức mạnh tổng hợp, giữ cho đất nước “trong ấm, ngoài êm”, phát triển bền vững.

Trải qua các thời kỳ cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Công an và Quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính. Vì vậy, càng phải đoàn kết chặt chẽ với nhau, giúp đỡ lẫn nhau”1, Công an nhân dân và Quân đội nhân dân luôn chung sức, chung lòng, đồng tâm hiệp lực, đoàn kết, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ, kề vai sát cánh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Mối quan hệ hữu cơ thống nhất, tác động lẫn nhau giữa quốc phòng và an ninh được Đảng ta nhấn mạnh trong sự kết hợp sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân. Vấn đề phối hợp giữa quốc phòng với an ninh trên phương diện tổ chức lực lượng, xây dựng tiềm lực, thế trận và hoạt động thực tiễn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Bố trí thế trận quốc phòng, an ninh phù hợp với tình hình mới. Gắn kết quốc phòng với an ninh. Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế trên từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác quy hoạch, kế hoạch và các chương trình, dự án”2. Thực tiễn sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta cho thấy, “Nhiệm vụ của Quân đội và Công an không thể rời nhau được vì nó đều có mục đích chung là bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ trị an cho nhân dân. Trong quá trình công tác, cần củng cố đoàn kết giữa Công an và Quân đội, đó là vấn đề nguyên tắc. Quân đội chuyên chống kẻ địch bên ngoài, Công an chủ yếu chống kẻ địch bên trong. Hai nhiệm vụ đó không tách rời nhau được và cũng không thể phân chia máy móc”3. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, nhất quán và xuyên suốt trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của hai lực lượng: Công an nhân dân và Quân đội nhân dân.

Những năm gần đây, quán triệt, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là các nghị định của Chính phủ về phối hợp giữa lực lượng Công an nhân dân và Quân đội nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, công tác phối hợp ngày càng chặt chẽ, hiệu quả, đạt được nhiều kết quả quan trọng, toàn diện trên tất cả các mặt. Hai lực lượng đã chủ động nắm chắc tình hình, thường xuyên trao đổi, kiểm tra, xác minh thông tin, thống nhất trong nhận định, đánh giá, dự báo tình hình, nhận diện sớm các nguy cơ, mối đe dọa đến lợi ích, an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc; kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước nhiều chủ trương, giải pháp chiến lược, quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; xử lý đúng đắn, linh hoạt, hiệu quả các tình huống về quốc phòng, an ninh, không để bị động, bất ngờ. Chủ động phối hợp trong bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh, trật tự trên khu vực biên giới, biển, đảo, đấu tranh phòng, chống tội phạm, thực hiện công tác vận động quần chúng, xây dựng thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân; xây dựng các phương án, kế hoạch phòng, chống tụ tập đông người trái pháp luật, biểu tình gây rối an ninh, trật tự, bạo loạn, khủng bố; xử lý có hiệu quả các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự, bảo vệ an toàn tuyệt đối các mục tiêu trọng yếu, sự kiện chính trị, văn hóa, đối ngoại trọng đại của đất nước, các hội nghị quốc tế tổ chức tại Việt Nam. Kết quả công tác phối hợp giữa hai lực lượng góp phần đặc biệt quan trọng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới đất nước, lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thời gian tới, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có nhiều thuận lợi, nhưng cũng đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Không gian cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đang đẩy về khu vực Đông Nam Á, uy hiếp trực tiếp đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ” của nước ta. Các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam có nguy cơ trở thành vật cản hay bàn đạp để các nước lớn kiềm chế lẫn nhau. Các vấn đề an ninh phi truyền thống diễn biến ngày càng phức tạp, đe dọa đến an ninh, quốc phòng của đất nước, khu vực và toàn cầu. Những nhân tố gây đột biến, bất lợi từ bên trong gia tăng, đặt ra yêu cầu rất cao đối với nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Các thế lực thù địch tăng cường hoạt động chống phá bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biễn”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chúng sử dụng mọi thủ đoạn nhằm vô hiệu hóa lực lượng vũ trang – lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; kích động chia rẽ Nhân dân với Đảng, Nhà nước, chia rẽ Quân đội với Công an, v.v.

Những vấn đề đó đặt ra yêu cầu cấp bách phải đặc biệt quan tâm chăm lo, củng cố mối đoàn kết, quan hệ phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa Công an nhân dân và Quân đội nhân dân; đưa quan hệ phối hợp giữa hai lực lượng ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả, tạo sức mạnh tổng hợp đánh bại mọi kẻ thù xâm lược cũng như hóa giải mọi thách thức, mối đe dọa từ bên trong. Để làm được điều đó, cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:

Đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, trực tiếp là của Đảng ủy Công an Trung ương và Quân ủy Trung ương, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với công tác phối hợp giữa hai lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.  Đây là nguyên tắc bất di, bất dịch, bảo đảm cho hai lực lượng hoạt động đúng phương hướng, định hướng chính trị, giữ vững bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước, Nhân dân và ngày càng đoàn kết, gắn bó chặt chẽ vì mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, bất luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải bảo vệ và giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Công an nhân dân và Quân đội nhân dân, trong đó có công tác phối hợp giữa hai lực lượng – vấn đề có ý nghĩa quyết định bản chất giai cấp công nhân, là cội nguồn sức mạnh của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác phối hợp giữa hai lực lượng phải được thực hiện xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương, trong đó ở từng địa phương phải đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước đổi mới cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; tham mưu các giải pháp, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng thành các văn bản pháp lý, quy chế, quy định về công tác phối hợp giữa hai lực lượng và tổ chức phối hợp, hiệp đồng trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, xác định rõ hơn nữa vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các đơn vị trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác phối hợp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo chức năng, nhiệm vụ được phân công.

Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ của hai lực lượng trong phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Hai lực lượng cần tích cực đổi mới nội dung, chương trình, hình thức, phương pháp giáo dục, phổ biến kiến thức pháp luật về quốc phòng, an ninh; làm cho cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân và Quân đội nhân dân nhận thức sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết phải phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa hai lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng và an ninh cho các đối tượng. Tập trung giáo dục quan điểm, tư duy mới của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng hiện nay; thống nhất nhận thức trong hai lực lượng về nội hàm của bảo vệ Tổ quốc, không chỉ hiểu theo nghĩa hẹp là chỉ có bảo vệ bên ngoài (biên giới, lãnh thổ quốc gia), mà cần hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả bên ngoài và bên trong (giữ ổn định an ninh, chính trị) đất nước; không chỉ chiến đấu bảo vệ khi có kẻ thù xâm lược, mà phải tổ chức phòng thủ, phòng ngừa từ trước, từ sớm, từ xa, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, gắn liền với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Đặc biệt, cần tập trung giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ hai lực lượng nắm chắc nội dung, phương pháp phối hợp hoạt động quy định trong Nghị định số 03/2019/NĐ-CP, ngày 05/9/2019 của Chính phủ về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng; hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, nhất là mưu đồ “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, chia rẽ mối quan hệ, truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa lực lượng Công an và Quân đội, hòng gây mất đoàn kết nội bộ, suy giảm sức mạnh quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Công tác phối hợp giữa hai lực lượng phải thực hiện đúng nguyên tắc, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, hiệp đồng chiến đấu từ Trung ương đến cơ sở và đảm bảo yếu tố bí mật về lực lượng, phương tiện, biện pháp nghiệp vụ của từng lực lượng. Công an nhân dân và Quân đội nhân dân là hai thành tố cơ bản, trọng yếu của lực lượng vũ trang nhân dân, cùng chung mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhưng mỗi lực lượng có chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, biên chế, phương tiện, nghệ thuật, phương thức hoạt động khác nhau. Vì vậy, trong quá trình phối hợp, hiệp đồng thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, phải giữ đúng nguyên tắc xây dựng lực lượng và duy trì hoạt động của mỗi ngành, trên cơ sở quán triệt, thực hiện các nghị quyết, nghị định, chỉ thị, văn bản pháp lý của Đảng, Nhà nước về công tác phối hợp. Trọng tâm là Nghị định số 03/2019/NĐ-CP; Nghị định số 78/2011/NĐ-CP, ngày 01/9/2011 của Chính phủ quy định việc phối hợp giữa Bộ Công an với Bộ Quốc phòng trong tổ chức thực hiện công tác phòng cháy và chữa cháy đối với cơ sở quốc phòng; Nghị định số 06/2007/NĐ-CP, ngày 12/01/2007 của Chính phủ về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong chỉ đạo, hướng dẫn Bộ đội Biên phòng và lực lượng Công an thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới, v.v. Có như vậy mới bảo đảm vừa tăng cường phối hợp, hiệp đồng, tạo sức mạnh tổng hợp, hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ chung là bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống, vừa giữ vững sự đoàn kết, thống nhất, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao của từng lực lượng.

Tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn, triển khai và chú trọng làm tốt công tác sơ kết, tổng kết trong phối hợp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở quán triệt, thực hiện các nghị quyết, nghị định của Đảng, Nhà nước về công tác phối hợp, các cơ quan chiến lược thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng cần tiếp tục chỉ đạo cụ thể hóa nội dung phối hợp bằng các quy chế, kế hoạch, phương án phù hợp với đặc điểm từng vùng, miền, địa bàn; phân công rõ trách nhiệm cho từng lực lượng, cơ chế chỉ huy, chỉ đạo, huy động, sử dụng lực lượng, phương tiện; thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự thay đổi của tình hình và nhiệm vụ từng lực lượng. Tăng cường kiểm tra, hướng dẫn, triển khai thực hiện công tác phối hợp ở các cấp; kịp thời rút kinh nghiệm khâu yếu, mặt yếu, sơ hở, thiếu sót trong phối hợp cung cấp thông tin, nhận định, đánh giá tình hình, thống nhất tham mưu và tổ chức thực hiện quyết tâm, phương án, kế hoạch bảo vệ Tổ quốc, v.v. Triển khai quan hệ phối hợp toàn diện các lĩnh vực; trong đó, tập trung vào cụ thể hóa, thực hiện hiệu quả quan điểm của Đảng về kết hợp giữa kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại; giữa xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh; kết hợp sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân; giữa thúc đẩy quan hệ phối hợp trên các lĩnh vực truyền thống (phòng, chống tập trung đông người, biểu tình, bạo loạn; trao đổi thông tin; giáo dục quốc phòng và an ninh; phòng, chống thiên tai, cháy nổ, dịch bệnh; tìm kiếm cứu nạn,…) với nghiên cứu, sớm có lộ trình, bước đi cụ thể phối hợp thực chất trong một số lĩnh vực quan trọng, mới nổi lên, như: tác chiến điện tử, không gian mạng, công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh, phối kiểm thông tin, v.v.

Bên cạnh đó, chú trọng làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả hoạt động phối hợp trên các lĩnh vực, ở các cấp, rút ra bài học kinh nghiệm thực tiễn; bổ sung, phát triển lý luận, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động phối hợp giai đoạn tiếp theo, tạo sức mạnh tổng hợp giữ đất nước “trong ấm, ngoài êm”. Khen thưởng kịp thời tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phối hợp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng mối quan hệ truyền thống gắn bó giữa Công an nhân dân và Quân đội nhân dân, lan tỏa hình ảnh, phẩm chất tốt đẹp người chiến sĩ Công an “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế. Đây cũng chính là các giải pháp nền tảng tạo sức mạnh nội sinh trong quan hệ phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa hai lực lượng – cơ sở quan trọng thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.                            

Thượng tướng LƯƠNG TAM QUANG, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương, Thứ trưởng Bộ Công an
_________________ 

1 – Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 153.

2 – ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 138.

3 – Bài phát biểu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 10, tháng 01/1956.

Nhận xét