Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là không thể phủ nhận

 

Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là không thể phủ nhận

Quốc An

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo. Đây chính là thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc biết chớp thời cơ, vùng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội.

Sự thật lịch sử hết sức rõ ràng. Thế nhưng, vẫn có một số người cố tình bóp méo, xuyên tạc tính chất và ý nghĩa về vấn đề lịch sử này. Có quan điểm cho rằng, cách mạng Tháng Tám nổ ra và thành công đó là từ hành động “bột phát, vô thức” của người dân phẫn uất do bị áp bức, bóc lột đứng lên giành chính quyền chứ chẳng có sự lãnh đạo nào cả. Khi bàn về vai trò của các tầng lớp, các giai cấp trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, có quan điểm cho rằng giai cấp nông dân Việt Nam đã nhận thức được “mệnh trời” và vai trò của mình. Từ cái nhìn hẹp hòi, thiển cận đó theo họ, vai trò nổi dậy của giai cấp nông dân Việt Nam mới là quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng.

Giọng điệu trên không nằm ngoài mục tiêu phủ nhận giá trị lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phủ nhận sự giác ngộ, ý thức tự giác, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng họ đã lầm. Cách nhìn nhận phi lý, phản khoa học, những luận điệu sai trái của họ không thể đánh lừa được nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới và những người Việt Nam chân chính.

Thực tiễn đã chứng minh, dù cách thể hiện trong từng giai đoạn có khác nhau nhưng ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định rất rõ nhiệm vụ cách mạng là đánh đổ đế quốc thực dân và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, đưa người dân từ thân phận nô lệ trở thành người chủ đất nước… Chính nhiệm vụ chung đó của cách mạng là sợi dây kết nối cả dân tộc Việt Nam đoàn kết lại với nhau. Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn nhất quán và đặt nội dung ấy vào nhiệm vụ trung tâm của cách mạng. Không thể phủ nhận rằng từ năm 1930 đến 1945, Việt Minh và Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã bám sát tình hình thế giới và trong nước, có rất nhiều chủ trương, đường lối, giải pháp cách mạng phù hợp để lãnh đạo toàn dân kết thành một khối đứng lên đấu tranh giành thắng lợi. Đặc biệt, trước những chuyển biến mạnh mẽ của tình hình trong nước và những biến động to lớn, mau lẹ của tình hình thế giới, tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Đảng họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh để quyết định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Nghị quyết hội nghị đã chỉ rõ: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(1). Để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ đó, vấn đề đặt ra là phải tập hợp, đoàn kết được mọi lực lượng, mọi giai tầng trong xã hội vào một mặt trận dân tộc thống nhất. Để giải quyết vấn đề này, ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Minh đã ra đời. Trong tuyên bố của mình, Việt Minh đã chỉ rõ: “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”(2). Bằng những chủ trương đúng đắn, chỉ trong thời gian ngắn dưới vai trò quy tụ, tập hợp của Mặt trận Việt Minh, mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội đã phát huy cao độ tinh thần cố kết cộng đồng, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh anh dũng, quật cường của toàn dân tộc để góp phần vào thành công của cuộc cách mạng.

Mặt khác, đại đoàn kết đã trở thành nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam được kiểm chứng qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. “Nước mất thì nhà tan”, mỗi người dân Việt Nam luôn ý thức sâu sắc điều này và tinh thần ấy luôn thường trực trong mỗi người con đất Việt. Từ thực tiễn lịch sử, nhân dân Việt Nam cũng từng tổng kết, đúc rút, chỉ có không ngừng xây dựng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thì mới tập hợp phát huy được sức mạnh nội lực của đất nước, mới xây dựng, bảo vệ nước nhà được hòa bình, thịnh vượng, an vui. Chính trên nền tảng ấy mà nhân dân ta đã không cam chịu thân phận, kiếp đời nô lệ, một lòng đi theo Đảng, triệu người như một quyết vùng lên giành độc lập, tự do cho dân tộc, giành địa vị làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh cho mình.

Có thể nói, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng tuyệt vời của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Cùng với đó cần phải khẳng định rõ rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và thành công gắn với vai trò lãnh đạo của Việt Minh, của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Chúng ta không phủ nhận vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, trong đó có giai cấp nông dân. Nhưng cần phải nhớ rằng, sự nhất tề vùng lên của quần chúng nhân dân nói chung, của giai cấp nông dân nói riêng không phải là “vô thức, bột phát” vì “phẫn uất” như một số người từng xuyên tạc, mà đó là sự vùng lên có giác ngộ, có tổ chức, theo đường hướng lãnh đạo của Việt Minh, của Đảng ta.

Có thể khẳng định sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với vai trò trung tâm của Mặt trận Việt Minh đã góp phần quyết định vào thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Thành quả, giá trị của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là rất rõ ràng. 70 năm nhìn lại, chúng ta càng hiểu hơn về sự kiện vĩ đại nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX, càng thấy rõ hơn giá trị của độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất. Thế nhưng, đâu đó vẫn có những quan điểm sai trái, những cái nhìn thiển cận, những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử, phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Tám, phủ nhận vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vai trò của Mặt trận Việt Minh, của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Chúng ta phải có trách nhiệm kiên quyết đấu tranh phản bác để loại bỏ nó ra khỏi đời sống xã hội.

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng. Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.112-113.

(2) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, tr.198.

Nhận xét